Truy cập nội dung luôn

 

Phụ nữ Bến Tre thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết ĐHĐBPN tỉnh nhiệm kỳ 2021 - 2026 và nhiệm vụ năm 2024

CHI TIẾT TIN

Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
31/07/2018

ĐỀ CƯƠNG

Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội

BCV: Đào Ngọc Dung, Uỷ viên Trung ương Đảng

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

 

I. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Lý do ban hành Nghị quyết

- Việc phát triển và thực hiện chính sách an sinh xã hội và BHXH là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước. BHXH về thực chất là trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

- Mục tiêu của chúng ta là phấn đấu tiến tới BHXH toàn dân, để đảm bảo cho mọi người dân đều được tiếp cận những thành tựu của quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

- BHXH và cải cách BHXH toàn dân cũng chính là thực hiện Điều 34 Hiến pháp về quyền của công dân.

- Bối cảnh ra đời NQ: 5 vấn đề lớn

1) Thực hiện cách chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách, đổi mới nhất là vấn đề kinh tế - xã hội theo tinh thần NQ ĐH XII của Đảng;

2) Chuẩn bị đón nhận và sẵn sàng cho giai đoạn già hoá dân số;

3) Thực hiện việc cải cách trong bối cảnh thực hiện tinh thần NQ TW 6, NQTW 7  về tiếp tục đổi  mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;

4) Trong xu thế và tác động trực tiếp của cách mạng công nghiệp, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động rất lớn (nhất là đối vối 3 lĩnh vực: giày da, công nghệ và may mặc cũng như các lĩnh vực khác tác động trực tiếp);

5) Cơ cấu kinh tế và quy mô kinh tế của chúng ta ở khu vực chưa chính thức là rất lớn, đời sống và thu nhập của người lao động còn thấp và không ổn định.

2. Về tình hình, kết quả    

2.1. Thành tựu

- Một là, về năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên một bước.

- Hai là, cơ chế, chính sách bảo hiểm từng bước được hình thành và ngày càng hoàn thiện, đồng bộ hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn của nước ta và thông lệ quốc tế. Việt Nam đã thực hiện 8/9 chế độ bảo hiểm bao gồm từ hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, tai nạn,... so với quốc tế chúng ta chưa có bảo hiểm trợ cấp gia đình (trợ cấp gia đình hiện nay của chúng ta không phải bảo hiểm).

- Ba là, quỹ BHXH của chúng ta hiện nay đã và đang trở thành quỹ bảo hiểm có nguồn thu lớn nhất hiện nay (trên 540.000 tỷ số kết dư).

- Bốn là, diện bao phủ và quy mô tham gia BHXH của chúng ta thời gian vừa qua đã tăng lên một bước, so với những năm trước đây thì tăng rất nhiều lần.

- Năm là, về tổ chức bộ máy, giải quyết các chính sách, chế độ cho người tham gia BHXH ngày càng tiến bộ và đã đạt được những kết quả tích cực.

2.2. Hạn chế

- Hệ thống chính sách, thiết chế các chính sách BHXH, nhất là bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp còn nhiều bất cập. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, chưa thích ứng với quá trình già hóa dân số và sự xuất hiện các quan hệ lao động mới.

- Việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn dưới mức tiềm năng; độ bao phủ bảo hiểm xã hội tăng chậm; số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh.

- Tình trạng trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội chậm được khắc phục. Quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn. 

- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa thực sự gắn với thị trường lao động, tập trung nhiều cho khu vực chính thức, chưa có chính sách phù hợp cho khu vực phi chính thức (nơi người lao động dễ bị tổn thương), còn nặng về giải quyết trợ cấp thất nghiệp, chưa chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa theo thông lệ quốc tế.

- Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm thất nghiệp còn nhiều bất cập. Các chế độ bảo hiểm xã hội chưa thể hiện đầy đủ các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. 

Ba nguyên tắc cơ bản nhất trong bảo hiểm xã hội: bình đẳng, đóng - hưởng, chia sẻ, hệ thống chính sách chúng ta đang thiết kế hiện nay nhằm về đóng - hưởng; đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, đóng ít thì hưởng ít, đóng nhiều thì hưởng nhiều, đây là nguyên tắc cơ bản nhất, và chúng ta đang nặng nguyên tắc này. Nguyên tắc chia sẻ thì rất hạn chế. Mục tiêu của NQ 21 đặt ra đến năm 2020, chúng ta phấn đấu có 50 % lực lượng lao động tham gia BHXH; chúng ta hiện có 13,9 triệu người (đạt 29,4 %), nguy cơ không đạt chỉ tiêu NQ 21 đã thấy được. Bên cạnh đó, số người hưởng BHXH một lần có xu hướng tăng nhanh. Hiện nay, cứ hai người vào thì một người ra, bình quân 5 năm qua có khoảng 600.000 người ra, tức người hưởng chính sách BHXH một lần. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do thiết kế chính sách của chúng ta , thời gian hưởng BHXH quá dài. Ngoài ra điều kiện kinh tế - xã hội cũng còn nhiều khó khăn, nhiều người vì cuộc sống, mưu sinh mà chấp nhận lợi ích trước mắt, chưa tính tới lợi ích lâu dài. Một vấn đề nữa là năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách của chúng ta còn hạn chế, công tác thông tin, tuyên truyền chưa tốt, chưa tới được các tầng lớp nhân dân và nhất là người thụ hưởng. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn rất nhiều bất cập, tình trạng trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng, lách luật,... diễn ra ở nhiều doanh nghiệp (hiện có trên 300.000 doanh nghiệp có tình trạng trốn đóng, nợ đóng; chỉ có trên 228.000/600.000 doanh nghiệp tham gia đóng đầy đủ).

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan điểm (có 5 quan điểm).

- BHXH là một trong trụ cột chính của an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng, ổn định chính trị, xã hội và đời sống nhân dân, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước về cả kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh.

-  Xây dựng và phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, hướng tới bao phủ toàn dân.

- Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội. 

- Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.

- Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân. 

2. Mục tiêu

2.1. Mục tiêu tổng quát (có 4 vấn đề):

 - Thứ nhất, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để BHXH thực sự là trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội.

- Thứ hai, từng bước mở rộng diện bao phủ, tiến tới BHXH toàn dân.

- Thứ ba, phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập và trên cơ sở đảm bảo ba nguyên tắc: đóng - hưởng, công bằng - bình đẳng và chia sẻ.

- Thứ tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phát triển hệ thống chính sách, đảm bảo tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch các mục tiêu đặt ra.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Giai đoạn đến năm 2021: 

Phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với doanh nghiệp đạt mức ASEAN 4; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 80%. 

- Giai đoạn đến năm 2025

Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%. 

- Giai đoạn đến năm 2030: 

Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 90%. 

III. NỘI DUNG CẢI CÁCH

Theo kinh nghiệm quốc tế và tổng kết quá trình thực hiện từ năm 1995 đến nay; đồng thời tham khảo ý kiến của nhiều các cơ quan, đơn vị, các nhà khoa học, đặc biệt là các chuyên gia quốc tế về vấn đề cải cách chính sách bảo hiểm, NQ xác định 11 vấn đề lớn trong cải cách BHXH.  

1. Xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng.

TW chỉ rõ điều đầu tiên phải bám vào 3 nguyên tắc, mà nguyên tắc quan trọng nhất là đóng - hưởng (câu chuyện cô giáo mầm non Trương Thị Lan ở Hà Tĩnh lương hưu thấp cũng căn cứ vào nguyên tắc này). Đây nguyên tắc hàng đầu, tất cả các nước trong thiết kế chính sách BHXH điều phải tính đến. Tuy nhiên, cũng phải quan tâm hai nguyên tắc khác, đó là công bằng, bình đẳng và chia sẻ. Vì sao có người nghỉ hưởng lương một tháng trên 100 triệu, nhưng cô giáo Lan chỉ có mấy trăm nghìn. Đây là câu chuyện mà chúng ta cần phải suy nghĩ và TW đã chỉ rõ trong thiết kế chính sách BHXH phải chuyển từ đơn tầng sang đa tầng. Đơn tầng ở đây thực chất là bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Và đa tầng bao gồm: tầng thứ nhất hiện nay là trợ cấp hưu trí xã hội; về bản chất là chuyển toàn bộ 1,6 triệu người đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội ở độ tuổi 80 tuổi trở lên sang chế độ BHXH với mức bình quân theo quy định hiện nay là 270.000 đồng/người/tháng. Một số đơn vị có điều kiện đã nâng mức này lên, ví dụ như TPHCM, Bình Dương, Hà Nội nâng lên 500.000 đồng/người/tháng,.. và chúng ta còn khoảng 5 triệu người đang trong độ tuổi nam từ 60 đến 80, nữ từ 55 đến 80 tuổi. Như vậy khi điều kiện kinh tế - xã hội tế cho phép, chúng ta sẽ giảm dần độ tuổi để những người này được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí xã hội. Đây là mục tiêu mà chúng ta thiết kế để phát huy tình tương thân tương ái, huy động sự tham đóng góp của xã hội để những người này được hưởng chế độ cao hơn, ví dụ như con cái có thể đóng góp cho bố mẹ, người thân có thể hỗ trợ cho nhau,... đây là tầng thứ nhất.

Tầng thứ hai là bảo hiểm cơ bản, gồm hai bộ phận bảo hiểm bắt buộc đối với những người có quan hệ lao động, có lương, có thu nhập thì tham gia BHXH. Thứ hai là số người tham gia bảo hiểm tự nguyện. Bảo hiểm tự nguyện hiện nay chúng ta thiết kế chỉ hai loại hình là chỉ hưu trí, tử tuất; nhưng sắp tới, chúng ta phải cân nhắc để thiết kế chính sách bảo hiểm tự nguyện ngắn hạn. Ví dụ như có thể tham gia vào bảo hiểm thất nghiệp, tai nạn lao động, thậm chí thai sản,… để nhiều người có thể tham gia bảo hiểm ngắn hạn. Thứ ba là chúng ta có thể điều chỉnh các chính sách để phát triển mạnh BHXH tự nguyện.

Tầng thứ ba là bảo hiểm hưu trí bổ sung, về bản chất đây là hưu trí tự nguyện, theo nguyên tắc thị trường nhằm tạo điều kiện cho những người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn đóng góp để hưởng lương cao hơn. Hiện nay chúng ta quy định, mức hưởng BHXH cao nhất là 75%, nhưng mà nếu chúng ta thiết kế như các gói như các nước thì người có điều kiện, đóng nhiều sẽ hưởng mức cao hơn và đồng thời góp một phần chia sẻ với những người có mức thụ hưởng thấp hơn. Việc thiết kế bảo hiểm đa tầng về bản chất chính là cân chỉnh lại, tăng cường kết nối các chính sách BHXH và các tầng BHXH, đảm bảo giữ BHXH với bảo trợ xã hội và các loại hình khác, gắn kết với nhau và liên kết với nhau để nhiều người tham gia hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế.

2. Đẩy nhanh việc gia tăng người lao động tham gia BHXH nhất là trong khu vực phi chính thức.

Đây là một nội dung rất quan trọng, bởi vì tỷ lệ lao động hiện nay trong khu vực phi chính thức ở nước ta còn rất cao. Chúng ta đang phấn đấu đến năm 2021, có khoảng 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 thì 1,5 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 là 2 triệu doanh nghiệp. Trên thực tế ngoài số cán bộ, công chức, viên chức, chúng ta có khoảng 11 triệu người lao động, trong đó, khu vực FDI 2,68 triệu người, lao động ngoài nhà nước 1,1 triệu người, khu vực doanh nghiệp tư nhân là 6 triệu; còn 3,4 triệu người lao động chưa tham gia bảo hiểm. Do đó việc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là các cơ sở kinh doanh cá thể (có khoảng 15,6 triệu người), chuyển từ chính thức sang phi chính thức theo tinh thần NQ 10 của Hội nghị TW 5 là chủ trương rất quan trọng của Đảng, đây chính là nội dung cải cách thứ hai mà TW nhấn mạnh thời gian tới phải quan tâm.

3. Sửa đổi các quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm tối thiểu để đảm bảo hưởng hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với điều chỉnh cách tính lương hưu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc sang nhóm đối tượng khác.

Thứ nhất là thiết kế lại điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần thời gian đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm và hướng tới còn 10 năm với mức hưởng phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia BHXH thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi BHXH.

Thứ hai là mở rộng bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã và người lao động theo chế độ linh hoạt.  

4. Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm, cũng như tính linh hoạt của các chính  sách nhằm đảm bảo đạt mục tiêu mở rộng bao phủ.

Thứ nhất là nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách BH thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp là bảo hiểm ngắn hạn dành cho những người có quan hệ lao động và hiện nay chúng ta đang có kết dư với 67.000 tỷ và chúng ta chỉ mới làm được một việc là chi cho những người thất nghiệp, nghĩa là chỉ mới tập trung giải quyết hậu quả của thất nghiệp chứ chưa chú ý đến dự phòng. Có 3 nguyên nhân, vừa qua chúng ta quy định quá chặt vấn đề này, có 3 quy định: thứ nhất chỉ chi để giải quyết hậu quả hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế, khôi phục doanh nghiệp khi có 3 điều kiện: điều kiện thứ nhất kinh tế suy giảm; thứ hai là lý do bất khả kháng; thứ 3 là doanh nghiệp thay đổi cơ cấu công nghệ, người lao động có nguy cơ bị sa thải. 3 nguyên nhân này có tính thụ động, cho nên trong thời gian tới chúng ta không chỉ trực tiếp giải quyết hậu quả mà phải để các chính sách này chuyển mạnh sang phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp và hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Trong phiên họp tháng 4 vừa qua Chính phủ giao cho Bộ lao động xây dựng Đề án trợ giúp các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI để phòng ngừa có thể chuyển đổi cơ cấu sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp nhất là đối với 3 lĩnh vực: giày da, công nghệ, may mặc, để đến năm 2025, đa phần người lao động chúng ta ở độ tuổi 30 - 35, độ tuổi rất dễ bị sa thải.

Thứ hai là tập trung nghiên cứu thiết kế các gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ BHXH tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách BHXH bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.

5. Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin tăng mức độ hài lòng của người dân tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội.

- Thứ nhất, xây dựng chính sách BHXH bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý, chênh lệch quá lớn về mức hưởng.

Chúng ta đang thực hiện chủ trương hỗ trợ cho người nghèo 30% nếu tham gia BHXH, hộ cận nghèo là 25% và người lao động bình thường là 10%, tức là những người không có quan hệ lao động. Nhưng trong thực tiễn, đã là người nghèo mà hỗ trợ 30%, cận nghèo hỗ trợ 25% không khả thi, nên hiện nay chỉ có 228.000 người tham gia bảo hiểm tự nguyện. Theo kinh nghiệm ở 4 nước gần chúng ta thì hộ nghèo họ hỗ trợ tới 50% và họ thành công, họ hỗ trợ và chấp nhận hỗ trợ người nghèo 2 đô la/ tháng, thì lập tức những người nghèo sẽ góp 4 đồng. Về BHYT, hiện nay chúng ta có trên 90%, nhà nước hiện nay đang hỗ trợ chỉ 50%. Trong thiết kế chính sách sắp tới, sẽ nghiên cứu và đề xuất theo hướng tăng dần hỗ trợ này lên.

- Thứ hai, đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng CNTT, đơn giản hoá các quy định, thủ tục đăng ký, đóng hưởng BHXH, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ BHXH theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.

6. Sửa đổi, khắc phục tính bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí theo hướng linh hoạt về điều kiện hưởng các chính sách hưu trí, chặt chẽ trong qui định hượng trợ cấp BHXH một lần, tăng tuổi hưu bình quân thực tế của người lao động.

- Thứ nhất, có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng BHXH 1 lần. Điều 60 của luật BHXH rất nhân văn. Tuy nhiên thời gian vừa qua, hưởng BHXH một lần có xu hướng tăng nhanh. Nghiên cứu kinh nghiệm các nước, chúng ta phải tiến hành điều chỉnh mức hưởng BHXH 1 lần. Hiện nay, chúng ta quy định người hưởng BHXH một lần được hưởng toàn bộ phần đóng góp của cá nhân, cộng với phần đóng góp của người sử dụng lao động. Cụ thể là cá nhân người lao động đóng góp 8%, người sử dụng lao động (cả nhà nước và doanh nghiệp) đóng góp 17%, người hưởng BHXH một lần được hưởng cả 25% thì rất bất hợp lý dẫn đến tình trạng, có những người tham gia bảo hiểm thời gian ngắn sau đó rút cả 25%, một thời gian sau quay lại làm bảo hiểm, sau đó lại rút một lần nữa ... Cho nên TW chủ trương cân nhắc và thiết kế lại chính sách hưởng BHXH một lần và hướng tới cá nhân đóng bảo hiểm bao nhiêu, khi hưởng chính sách bảo hiểm một lần thì chỉ hưởng phần mà cá nhân đã đóng góp để đảm bảo nguyên tắc chia sẻ và bảo toàn sự phát triển của quỹ.

- Thứ hai, tuyên truyền, khuyến khích người lao động nên tham gia BHXH dài hạn, không nên rút BHXH một lần. Chú ý đối với nhân dân không nên dùng từ cảnh báo mà là khuyến khích, tuyên truyền, vận động.

7. Sửa đổi các quy định về mức đóng và căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

- Sửa đổi quy định về căn cứ đóng BHXH khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng 70% tổng tiền lương và các khoảng thu nhập khác có tính chất lương của người lao động để  khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ, ảnh hưởng đến cân đối quỹ và quyền lợi của người lao động.

- Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động. 

8. Điều chỉnh tỷ lệ tích lũy để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Quốc tế điều chỉnh theo thông lệ là tỷ lệ tích luỹ so với mức hưởng là khoảng 30%, cao nhất 5%, còn ta thì hào phóng đóng thì ít hưởng nhiều tỷ lệ cao, đóng ngắn nhưng thời gian dài. Hiện nay bình quân đóng là 22% nhưng hưởng hiện nay là 70% cao nhất là 75%, các nước cao nhất là 45%. 

9. Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả.

Kết dư của chúng ta hiện nay là trên 540 ngàn tỷ đối với quỹ bảo hiểm thì việc giữ an toàn, bền vững và sinh lời là rất quan trọng. Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế.

10. Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi công thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ (Có 4 vấn đề lớn):

- Tách lương hưu với lương của người đang làm việc. Thời gian vừa qua chúng ta đã có 15 lần nâng lương, 15 lần điều chỉnh lương hưu, rất bất cập, mỗi lần điều chỉnh thì mức khung rất ngắn, có những khung chỉ vài chục ngàn mà liên tục thay đổi mà 2 nguồn này lại khác nhau. Nâng lương cho người nghỉ hưu là dựa vào khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và mức tăng chỉ số tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội, khả năng ngân sách nhà nước cho phép cho nên trong thời gian tới phải tách bạch ra và điều chỉnh phù hợp với từng nhóm đối tượng. Quan tâm đến đối tượng có mức nghỉ hưu thấp và người nghỉ hưu trước năm 1995. Những đồng chí nghỉ hưu trước năm 1995 mức lương cuộc sống bây giờ càng khó khăn, đã quan tâm cân đối nhưng không tương thích được. Vì vậy khi tách ra thì có điều kiện quan tâm hơn đối với các đồng chí nghỉ hưu có mức lương thấp, cũng như các đồng chí nghỉ hưu trước năm 1995.

11. Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình.

- Nâng dần tuổi nghỉ hưu là xu thế thế giới hầu hết trong khu vực đều có động thái này để thích ứng với xu thế già hoá dân số.

Tuổi nghỉ hưu: Bồ Đào Nha là 67, Đức là 67 vào năm 2029, Ý là 68, Pháp là từ 62 lên 67 vào năm 2023, Indonexia 62 tuổi vào năm 2043, Malayxia là 65 vào năm 2040, Hàn Quốc 65 vào năm 2034, Nhật Bản 65 vào năm 2030. Hầu hết các nước đều có lộ trình và khoảng 20 năm.

- Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình.

- Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu căn cứ vào: 1) Tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; 2) Không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; 3) Bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; 5) Bình đẳng giới; 6) Cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn;7) Xu hướng già hoá dân số; 8) Tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực. 

Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo:

 1) Mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung;

2) Thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu;3) đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung. 

- Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu đứng dưới 2 gốc độ: lao động (năm 2000 người bước vào tuổi lao động 15 tuổi là 1,7 triệu người, người nghỉ hưu là 500.000 người và  năm 2017 có 1,3 triệu người bước vào tuổi lao động, có 953.000 người nghỉ hưu, dự báo đến năm 2035 có 1,5 triệu người bước vào tuổi lao động thì có 1.3 triệu người nghỉ hưu) và tuổi nghỉ hưu, quỹ bảo hiểm (Thứ nhất: Nam 60, nữ 55 được quy định cuối năm 1960, đầu năm 1961 nhưng từ đó đến nay chúng ta không thay đổi, trong khi đó tuổi thọ bình quân chỉ 40 tuổi. Đến nay nam bình quân 73 tuổi, nữ là xấp xỉ 7 tuổi; những người thọ từ 60 trở lên đối với nam là 78 tuổi, nữ là 79,5 tuổi; thứ hai: tuổi nghỉ hưu thực tế của Việt Nam thấp nhất khu vực, bình quân cả nam lẫn nữ chỉ có 54,3 (nam là 55,6, nữ là 52,6). Tính về yếu tố bền vững của quỹ thì thời gian đóng gấp đôi thời gian hưởng thì mới bền vững, ở Việt Nam bình quân thì nam đóng 28 năm hưởng 22,5 năm; nữ là 23 năm hưởng 27 năm.

- Bốn vấn đề cần lưu ý trong chủ trương điều lương hưu:

1) Thời gian điều chỉnh của chúng ta bắt đầu từ năm 2021;

2) Các ngành nghề đặc biệt và người có nguyện vọng nghỉ hưu sớm hơn hay muộn hơn 5 năm;

3) Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu thực hiện theo lộ trình (cơ quan tham mưu đề xuất nam nghỉ hưu ở tuổi 62, nữ tuổi 60, có lộ trình mỗi năm tăng thêm 03 tháng đến năm 2041 thì nữ sẽ đạt tuổi nghỉ hưu là 60; 2029 thì nam là 62, bắt đầu năm 2026 thì nữ là 56 tuổi);

 4) Từ nay đến năm 2021 có thể khi cần điều chỉnh nghỉ hưu sớm hơn hoặc muộn hơn một số ngành nghề đặc biệt thì vẫn thực hiện được, nhưng nhóm đặc biệt theo Khoản 3, Điều 187 Bộ Luật lao động.

IV. Nhiệm vụ giải pháp chủ yếu 

1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội

 Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung quan trọng của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Tham mưu chương trình hành động của Chính phủ chuẩn bị thông qua vào tháng 8 tập trung vào các nội dung:

1) Các bộ ngành địa phương cần tổ chức, quán triệt sâu rộng Nghị quyết này với cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân;

2) Các bộ, cơ quan bảo hiểm xã hội xây dựng đề án đổi mới toàn bộ theo các tỉnh vùng miền, đối tượng, chú ý khu vực phi chính thức, khu vực đồng bào thiểu số cũng như nông dân nhất là phát huy vai trò, uy tín của tổ chức chính trị xã hội;

3) Các cơ quan thông tin tuyên truyền, báo chí cần đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách bảo hiểm xã hội, Đài Truyền hình Việt Nam, Tiếng nói Việt Nam cần xây dựng chương trình phổ biến chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội.

2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội

- Một là, sửa đổi 4 bộ Luật (Lao động, người Việt Nam đi lao động nước ngoài, Việc làm, Bảo hiểm xã hội).

- Hai là, sửa đổi và ban hành toàn bộ văn bản dưới luật các chính sách để triển khai 11 nội dung vừa nêu.

- Ba là, sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm chuyển từ thụ động, sang chủ động.

- Bốn là, hoàn thiện chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, đảm bảo cho doanh nghiệp và người lao động có quyền khởi kiện nếu có phát hiện sai phạm trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.

3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp từ xây dựng thể chế, thanh tra, kiểm tra, triển khai đề án giao chỉ tiêu phát triển đối tượng với các địa phương và bắt đầu triển khai từ năm 2019.   

- Tăng cường kết nối, chia sẽ thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan thuế, tài chính, lao động để giám sát đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và thực thi chính sách.

- Xây dựng đề án uỷ thác cơ quan thuế thực hiện thu bảo hiểm xã hội ở một số đối tượng, lĩnh vực cho phép chống trục lợi.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chất lượng cung ứng dịch vụ và sự hài lòng của nhân dân, người lao động.

4. Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp

- Thực hiện NQTW6 sắp xếp sao cho tinh gọn tổ chức bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

- Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng quản lý BHXH. Đẩy mạnh cải cách TTHC. Triển khai có hiệu quả các chính sách BH thất nghiệp…

5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội. 

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Tất cả cơ quan đều tập trung có hai vấn đề quan trọng nhất là: 1) Làm sao để nhân dân nhận thức đúng được vấn đề, ủng hộ việc làm này, tự nguyện tự giác tham gia bảo hiểm xã hội để dần dần bảo hiểm xã hội trở thành văn hoá của người Việt Nam như một số nước đã thành công; 2) Xây dựng một chính sách hợp lòng dân để nhân dân thấy rằng lợi ích cho chính mình có lợi ích chung vì đất nước vì bản thân mình sẽ tự nguyện, tự giác tham gia. 

 

 

HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG

Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1

Liên kết Liên kết

QUẢNG CÁO - DOANH NGHIỆP QUẢNG CÁO - DOANH NGHIỆP

Thống kê Thống kê

  Đang truy cập : 3
  Hôm nay: 393
  Tổng lượt truy cập: 393602