Truy cập nội dung luôn

 

Phụ nữ Bến Tre thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết ĐHĐBPN tỉnh nhiệm kỳ 2021 - 2026 và nhiệm vụ năm 2024

CHI TIẾT TIN

Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp
31/07/2018

ĐỀ CƯƠNG

Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương

đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và

người lao động trong doanh nghiệp

Lê Vĩnh Tân, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ

Đây là đề án được thực hiện cách đây hơn 02 năm và Ban chỉ đạo đề án đã tổ chức rất nhiều cuộc tham quan, học tập kinh nghiệm ở một số nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore và một số nước ở Châu Âu và đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm trên 3 vùng miền của đất nước, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 7 từ ngày 07 đến ngày 02 tháng 5 năm 2018, Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất thông qua.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT

Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và liên quan trực tiếp đến cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và đời sống của người dân. Về chính sách tiền lương ở nước ta, từ năm 1960 đến nay đã có 4 lần thực hiện cải cách vào các năm 1960, 1985, 1993 và năm 2003.

- Năm 1960, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/CP quy định mức lương của cán bộ lãnh đạo nói chung cao hơn mức lương của cán bộ, nhân viên bị  lãnh đạo. Mức lương của chức vụ có yêu cầu cao về kỹ thuật, nghiệp vụ cao hơn mức lương của chức vụ mà yêu cầu kỹ thuật, nghiệp vụ đơn giản hơn. Mức lương của lao động trong điều kiện khó khăn, độc hại cao hơn của lao động trong điều kiện bình thường. Cán bộ, viên chức đang làm chức vụ gì thì xếp lương theo chức vụ ấy; khi chức vụ thay đổi thì bậc lương cũng thay đổi theo. Mức lương tối thiểu là 27,3 đồng. Bảng lương chức vụ được thiết kế theo quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, là 1 - 2,56 (70/27,3) - 7,03 (192/27,3) (nhân viên phục vụ bậc 1 có mức lương 27,3 đồng - kỹ sư công nghiệp nhẹ bậc 1 có mức lương 70 đồng - tương đương Bộ trưởng có mức lương 192 đồng).

- Năm 1985, NQ Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) và Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), là cuộc cải cách lớn về giá - lương - tiền với nội dung chủ yếu là tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế 1 giá; bảo đảm tiền lương thực tế cho người làm công ăn lương; xác lập quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở kinh tế. Nghị định 235 quy định thang, bảng lương đối với công nhân, nhân viên, cán bộ quản lý xí nghiệp, công ty và bảng lương chức vụ đối với cán bộ, viên chức trong các tổ chức sự nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể:

Nguyên tắc hưởng lương: Làm công việc gì, chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc ấy, chức vụ ấy; khi thay đổi công việc, chức vụ thì hưởng lương theo công việc mới, chức vụ mới, không bảo lưu mức lương cũ (trừ những trường hợp cán bộ cấp trên được cử về tăng cường cho cấp dưới).

Mức lương tối thiểu là 220đ/tháng ứng với vùng có giá sinh hoạt thấp nhất. Đây là cơ sở để định các mức lương cấp bậc hoặc chức vụ. Bảng lương được thiết kế theo quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa (nhân viên phục vụ bậc 1 có mức lương 220đ - kỹ sư bậc 1 có mức 290đ - tương đương Bộ trưởng 770đ) là 1 - 1,32 (290/220) - 3,5 (770/220). Có 10 khoản phụ cấp: khu vực; chênh lệch giá sinh hoạt theo vùng; thâm niên đặc biệt; thâm niên vượt khung; ưu đãi; chiến đấu; độc hại, khó khăn, nguy hiểm; lưu động; trách nhiệm; thu hút về cơ sở sản xuất. Tiền thưởng từ quỹ lương bẳng 5% quỹ lương cấp bậc hoặc chức vụ.

- Cải cách tiền lương năm 1990 đặt nền móng cho sự hình thành tiền lương, trên cơ sở có quan hệ thuê mướn lao động, tạo sự cạnh tranh giữa những người lao động và điều kiện cho sự phát triển thị trường lao động; tách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức với tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp và thực hiện mức lương tối thiểu là 120.000đồng/tháng, làm căn cứ để tính các mức lương khác của hệ thống bảng lương, mức phụ cấp lương và trả công đối với người làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường. Hệ thống bảng lương (lương chức vụ đối với cán bộ bầu cử và lương chuyên môn cộng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ bổ nhiệm) được ban hành quy định bằng hệ số nhân với mức lương tối thiểu được thiết kế theo quan hệ tiền lương 1 - 1,78 - 8,5. Giảm từ 2 loại phụ cấp (từ 10 loại xuống còn 8 loại: khu vực; độc hại, nguy hiểm; trách nhiệm; thu hút; đắt đỏ; lưu động; thâm niên; phục vụ quốc phòng, an ninh) và sau đó bổ sung thêm nhiều phụ cấp ngành nghề khác (phụ cấp đặc biệt; ưu đãi giáo viên đứng lớp; phẫu thuật; chống dịch; thường trực chuyên môn y tế; chế độ bồi dưỡng phiên toà, kiểm lâm,..).

- Chế độ tiền lương hiện hành (bắt đầu thực hiện từ năm 2003 khi điều chỉnh tiền lương tối thiểu và thay đổi cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương) đã được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa chế độ tiền lương 1993. Hệ thống bảng lương ban hành từ tháng 10-2004 tiếp tục được quy định bằng hệ số nhân với mức lương tối thiểu và được thiết kế theo quan hệ tiền lương 1 - 2,34 - 10 theo hướng thu gọn một bước hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương, mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa các bậc lương, giảm dần phức tạp, bảo đảm tương quan giữa các đối tượng, các ngành và các lĩnh vực; quy định thống nhất các chức danh lãnh đạo (không phân biệt bầu cử hay bổ nhiệm) từ thứ trưởng và tương đương trở xuống xếp theo ngạch, bậc công chức, viên chức và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo để thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị. Cơ chế quản lý tiền lương đã tách bạch giữa khu vực hành chính với khu vực sự nghiệp và khu vực sản xuất kinh doanh.

Tóm lại, quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tiền lương là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính phủ đã triển khai xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách tiền lương phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; từng bước hoàn thiện chế độ tiền lương, cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chính sách tiền lương đã phát sinh nhiều bất cập, nhiều lần cải cách nhưng lương vẫn thấp, chưa đủ sống, chưa tạo động lực đủ mạnh, kích thích cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phát huy tài năng; cống hiến, tận tâm, tận lực với công việc, phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp.

Để đảm bảo ổn định xã hội, tạo động lực phát triển KT-XH, hội nhập quốc tế, … đòi hỏi phải cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, thúc đẩy các hoạt động sự nghiệp, chăm lo tốt hơn cho cả người cung cấp dịch và cả đối tượng thụ hưởng, HN lần 7 BCHTW khoá XII đã thống nhất ban hành NQ về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp (NQ số 27-NQ/TW, ngày 21/5/2018).

II. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG

1. Thuận lợi

Kế thừa được thành tựu của hơn 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nhiều chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta tạo nền tảng cho chính sách cải cách tiền lương, nhất là hoàn thiện về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới, sắp xếp bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị, đổi mới và phát huy quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, vấn đề cải cách hành chính …

2. Khó khăn

Những khó khăn thách thức về tri thức, công nghệ, nhu cầu đầu tư cho phát triển đất nước, thực hiện các mục tiêu về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, quốc phòng an ninh,… rất lớn. Trong khi đó việc cải cách chính sách tiền lương liên quan đến nhiều chế độ chính sách khác và chịu ảnh hưởng của tác động đến các tầng lớp nhân dân và nhiều tầng lớp trong xã hội. Cho nên phải có sự đồng đồng thuận và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị thì chúng ta mới có thể thực hiện được chính sách cải cách tiền lương trong thời gian sắp tới.

3. Thực trạng chính sách tiền lương

* Tiền lương trong khu vực công đã từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao đời sống của những người hưởng lương; từ năm 2003 đến nay thì chúng ta có 11 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung (từ ngày 01/7/2013 thay bằng mức lương cơ sở; nếu tính đến ngày 01/7/2018 này là điều chỉnh 12 lần) từ 210.000đ/tháng lên 1.300.000đ/tháng (tăng thêm 519 lần, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng kỳ 208,58% và sắp tới đây là 1.390.000đ/tháng); đồng thời thu gọn hệ thống bảng lương, rút bớt số bậc trong ngạch và mở rộng khoản cách giữa các bậc lương so với năm 1993.

- Quy định về bản lương chuyên môn theo ngạch, bậc đối với công chức, viên chức; quy định các chức danh lãnh đạo từ thứ trưởng và tương đương trở xuống thực hiện xếp lương ngạch, bậc và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị. Bảng lương của lực lượng vũ trang được quy định riêng thể hiện rõ sự ưu đãi của Nhà nước. Thực hiện nâng bậc lương đối với cán bộ, công chức, viên chức; xét thăng quân hàm đối với sĩ quan; nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh.

- Quy định về phụ cấp theo các nhóm: có tổng cộng 5 nhóm phụ cấp và trên 30 loại phụ cấp: 1) Nhóm phụ cấp chức vụ lãnh đạo (theo phân loại chức vụ và phân loại tổ chức); 2) Nhóm phụ cấp theo vùng (phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt ở biên giới, hải đảo); 3) Nhóm phụ cấp theo điều kiện lao động và ưu đãi theo nghề, công việc (phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp lưu động, thâm niên nghề và các phụ cấp đối với nghề y, nhà giáo, văn nghệ sỹ, toà án, kiểm sát, hải quan, thanh tra,…); 4) Nhóm phụ cấp theo thời gian công tác (phụ cấp công tác lâu năm, thâm niên vượt khung); 5) Nhóm phụ cấp theo cơ quan (phụ cấp công vụ, phụ cấp công tác đảng, đoàn thể,…).

- Với 5 nhóm và nhiều loại phụ cấp nêu trên là quá lớn. Để từng bước đổi mới và tách riêng cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập của cơ quan nhà nước với đơn vị sự nghiệp công lập để tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức (từ kinh phí tiết kiệm chi hành chính) và viên chức (từ chế độ tự chủ tài chính); góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước và chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.

- Đổi mới giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương, gồm có 4 nguồn cơ bản đó là: 1) Tiết kiệm 10% chi thường xuyên; 2) Sử dụng phần thu của các cơ quan hành chính và một phần nguồn thu sự nghiệp; 3) Thực hiện 50% số tăng thu ngân sách địa phương; 4) Phần kinh phí còn thiếu do ngân sách trung ương bảo đảm, thay cho việc bảo đảm toàn bộ từ ngân sách trung ương như trước năm 2003.

* Hạn chế, bất cập

- Chính sách tiền lương trong khu vực công phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất và hiệu quả làm việc của người lao động.

- Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số không thể hiện rõ giá trị thực của tiền 1ương. Việc quy định mức lương cơ sở từ tháng 7/2013 đến nay thay cho mức lương tối thiểu chung theo Kết luận số 63-KL/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI để phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước nhưng thấp hơn nhiều so vói mức lương tối thiểu vùng, dẫn đến tiền lương của khu vực công cách biệt và thấp hơn khu vực doanh nghiệp.

- Quy định xếp lương đối với các chức danh lãnh đạo (bầu cử, bổ nhiệm) theo ngạch, bậc và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo tuy có thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ, nhưng chưa thể hiện được rõ việc trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; đồng thời do phụ cấp chức vụ lãnh đạo chiếm tỷ trọng nhỏ dẫn đến nhiều trường hợp tiền lương của lãnh đạo cấp trên (kế cả người chỉ huy trong lực lượng vũ trang) thấp hơn tiền lương của lãnh đạo dưới, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ.

- Có quá nhiều loại phụ cấp, đặc biệt là phụ cấp theo nghề và hệ số tiền lương tăng thêm đối với một số cơ quan, đơn vị thực hiện cơ chế tài chính đặc thù do nhiều cơ quan quyết định đã phát sinh nhiều bất hợp lý. Tổng quỹ phụ cấp năm 2017 chiếm khoảng 40% tổng quỹ tiền lương, cao hơn thông lệ quốc tế khoảng 30%.

- Tiền lương tính theo chế độ thấp nhưng nhiều trường hợp có các khoản thu nhập ngoài lương như tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài,... chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của cán bộ, công chức, làm mất vai trò đòn bẩy của tiền lương.

- Chưa có giải pháp gắn cải cách tiền lương với việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việc đổi mới tổ chức và quản lý, cơ chế tài chính đối với khu vực sự nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu.

- Nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương đối với khu vực công cơ bản vẫn do ngân sách nhà nước bảo đảm (khoảng 98% giai đoạn 2011-2016) và chủ yếu từ ngân sách trung ương (khoảng 68%). Việc thực hiện xã hội hoá và điều chỉnh giá, phí dịch vụ công theo cơ chế thị trường trong nhiều lĩnh vực còn chậm. Nhiều địa phương còn dư nguồn cải cách tiền lương nhưng không được chi lương cao hơn.

- Chưa có cơ chế tiền thưởng gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức làm việc hiệu quả.

- Công tác thông tin, báo cáo, thống kê vế tiền lương chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên, nhất là đơn vị sự nghiệp công lập; chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về đối tượng và tiền lương trong khu vực công để phục vụ công tác phân tích, đánh giá, hoạch định chính sách tiền lương quốc gia.

* Về chính sách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp: đã từng bước được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mức lương trả cho người lao động dựa trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trong hợp đồng lao động và thỏa ước động tập thể.

Nhà nước đã giảm dần sự can thiệp hành chính, quản lý tiền lương thông qua quy định mức lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ để thoả thuận tiền lương và điều tiết thị trường lao động. Thay đổi cơ chế xác lập mức lương tối thiểu vùng, từ ấn định của Nhà nước sang dựa trên kết quả thương lượng của ba bên (đại diện người lao động, đại diện người sử dụng lao động và Nhà nước) thông qua Hội đồng tiền lương quốc gia. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp, từng bước cải thiện đời sống người lao động.

- Doanh nghiệp được quyền quyết định chính sách tiền lương (thang lương, bảng lương và trả lương theo năng suất lao động, kết quả công việc) theo nguyên tắc chung do Chính phủ quy định, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người lao động và ngưòi sử dụng lao động trong điều kiện thị  trường lao động chưa phát triển, năng lực thương lượng tiền lương của người lao động tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (công đoàn) còn hạn chế.

- Vai trò tổ chức công đoàn trong việc tham gia quyết định chính sách tiền lương của doanh nghiệp (xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương và thưởng…) từng bước được tăng cường, bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình ban hành chính sách và trả lương cho người lao động.

- Nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ nâng cao năng lực thương lượng, kết nối cung - cầu lao động cung cấp thông tin thị trường lao động (nhu cầu tuyển dụng, mức lương trên thị trường...) để người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận công việc, tiền lương.

- Chính sách tiền lương đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp với chủ trương của Đảng về sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thông qua quy định các tiêu chí, điều kiện và giao cho doanh nghiệp quyết định tiền lương trả cho người lao động gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh; tách tiền lương của người quản lý với người lao động, gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  

* Hạn chế, bất cập: Quy định về tiền lương tối thiểu trong Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật chưa cụ thể, tiêu chí xác định còn nhấn mạnh vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; chưa quy định mức lương tối thiểu theo giờ nên độ bao phủ còn hẹp, chức năng bảo vệ người lao động yếu thế còn hạn chế; vai trò của Hội đồng Tiền lương quốc gia còn hạn chế.

- Việc Nhà nưốc quy định một số nguyên tắc về xây dựng thang, bảng lương (như khoảng cách giữa các bậc lương ít nhất 5%, mức lương đối với công việc qua đào tạo phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu...) tuy đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động, hạn chế tranh chấp lao động nhưng còn chưa hợp lý, ảnh hưởng đến quyền tự chủ tiền lương của doanh nghiệp.

- Chưa thực sự phát huy được vai trò, tác dụng của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền lương giữa người sử dụng lao động và người lao động trong quan hệ lao động. Vi phạm quy định pháp luật về tiền lương còn nhiều; công tác hướng dẫn, tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế.

- Cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập. Tiền lương của người lao động chưa thực sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh; chưa tách bạch giữa tiền lương của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên với ban giám đốc. Phân phối tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp nhà nước chưa phản ánh đúng quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường; chưa bảo đảm công khai, minh bạch.

* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập:

Những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương nêu trên có nguyên nhân khách quan từ nội lực của nền kinh tế còn yếu; chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tích lũy còn ít, nguồn lực còn hạn chế, nợ công đã ở sát giới hạn cho phép, không còn nhiều dư địa chính sách, trong khi phải ưu tiên bố trí ngân sách cho đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh,...; nhưng nguyên nhân chủ quan là do:

- Tiền lương là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, việc hoạch định, điều chỉnh chính sách rất khó và dễ phát sinh những bất hợp lý; việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm, chưa có nghiên cứu căn bản và toàn diện về chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Số đơn vị sự nghiệp công lập tăng nhanh, làm cho đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước quá lớn và ngày càng tăng, nhất là biên chế viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố (tổng số lên đến 4,14 triệu người, chưa kể Quân đội, Công an và đối tượng hưởng trợ cấp); dẫn đến tổng quỹ lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn (bình quân khoảng 20% tổng chi ngân sách nhà nước). Việc xác định vị trí việc làm còn chậm, chưa thực sự làm cơ sở để xác định biên chế và trả lương.

- Nguồn kinh phí được giao tự củu trong tổng chi ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa hợp lý, dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành chính để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức khá lớn và trở thành phổ biến.

- Chưa phân biệt rõ chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách ưu đãi người có công; trong quá trình thực hiện vẫn gắn việc điều chỉnh tiền lương vối điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công, dẫn đến thay đổi lộ trình của từng chính sách.

- Chưa phân định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp, giữa đại diện chủ sở hữu với ban điều hành doanh nghiệp trong quản lý, giám sát tiền lương tại doanh nghiệp. Công tá thanh tra, kiểm tra, giám sát hệ thống thông tin thị trường lao động, tiền lương, năng lực thương lượng về tiền lương của người lao động trong ký kết hợp đồng lao động và vai trò của tổ chức công đoàn trong các thoả ước lao động tập thể còn hạn chế,…

- Công tác hướng dẫn, tuyên truyền vế chính sách tiền lương chưa tốt, dẫn đến việc xây dựng và thực hiện một số chính sách còn chưa tạo được đồng thuận cao, nhất là về việc đổi mới tổ chức, quản lý và cơ chế tài chính đối vối các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ phí (giá) dịch vụ để tạo thêm nguồn lực cho cải cách tiền lương.

III. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan điểm

1) Chính sách tiền lương là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Tiền lương phải thật sự là nguồn thu nhập chính đảm bảo đời sống của người lao động và gia đình của họ; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.

2) Cải cách chính sách tiền lương phải đảm bảo tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả hạn chế và bất cập trong chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ theo nguyên tắc cơ cấu theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước.

3) Trong khu vực công, Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, đảm bảo tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi ngộ khen thương xứng đáng đối với người lao động.

4) Trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ quyền lợi của người lao động yếu thế. Việc phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ hài hòa ổn định trong nội bộ doanh nghiệp.

5) Cải cách chính sách tiền lương là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ rất quan trọng đòi hỏi quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; thúc đẩy cải cách hành chính; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

2. Mục tiêu

2.1. Mục tiêu tổng quát:

Xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển cùa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

2.2. Mục tiêu cụ thể:

Từ giai đọan năm 2018 đến năm 2020

* Đối với khu vực công:

- Tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương cơ sở theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề.

- Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới theo nội dung cải cách chính sách tiền lương; gắn với lộ trình cải cách hành chính, tinh gọn biên chế; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết của Trung ương.

* Đối với khu vực doanh nghiệp:

- Thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.

- Thực hiện thí điểm quản lý lao động, tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước theo nội dung của Đề án cải cách chính sách tiền lương đưuọc phê duyệt.

Giai đọan năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030

* Đối với khu vực công:

- Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong tòan bộ hệ thống chính trị

- Năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp.

- Định kỳ thực hiện nâng mức lương phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng, mức tăng trưởng kinh tế và khả năng của ngân sách nhà nước.

- Đến năm 2025 tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp.

- Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thất nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.

* Đối với khu vực doanh nghiệp

- Từ năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia. Các doanh nghiệp được thực hiện chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động và đại diện tập thể người lao động, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.

- Thực hiện quản lý lao động, tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước theo phương thức khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến năm 2025 và tiến tới giao khoán nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vào năm 2030.

3. Nội dung cải cách:

3.1. Đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lựơng vũ trang (khu vực công)

- Thiết kế tiền lương mới: Lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương, trước đây lương chỉ chiếm 60%, 40% phụ cấp) và các khoản phụ cấp (chiếm không quá 30% tổng quỹ lương). Ngoài ra còn có cơ cấu tiền thưởng khoảng 10% tổng quỹ lương hành năm, không bao gồm phụ cấp.

- Xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng gồm:

+ Xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã theo nguyên tắc: 1) Mức lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính trị; giữ chức vụ lãnh đạo nào thì hưởng theo lương chức vụ đó, nếu một người giữ nhiều chức vụ thì hưởng một mức lương chức vụ cao nhất; giữ chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương chức vụ như nhau; mức lương chức vụ của người lãnh đạo cáp trên phải cao hơn mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp dưới; 2) Quy định mức lương chức vụ cho mỗi loại chức vụ tương đương; không phân loại bộ, ban, ngành, ủy ban và tương đương ở Trung ương khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung ương; không phân biệt mức lương chức vụ khác nhau đối với cùng chức danh lãnh đạo theo phân loại đơn vị hành chính ở địa phương mà thực hiện bằng chế độ phụ cấp. Việc phân loại chức vụ lãnh đạo tương đương trong hệ thống chính trị để thiết kế bảng lương chức vụ do Bộ Chính trị quyết định sau khi đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương.

+ Xây dựng 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có nhiều bậc lương theo nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức lương như nhau; điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thì thực hiện bằng chế độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức do cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức thực hiện.

+ Xây dựng 3 bảng lương đối với lực lượng vũ trang gồm: 1 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an (theo chức vụ chức danh và cấp bậc quân hàm hoặc cấp hàm); 1 bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1 bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an (trong đó giữ tương quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay).

- Xác định yếu tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới:

+ Bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong bảng lương mới.

+ Thực hiện thống nhất chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động (hoặc hợp đồng cung cấp dịch vụ) đối với những người làm công việc thừa hành, phục vụ (yêu cầu trình độ đào tạo dưới trung cấp), không áp dụng bảng lương công chức, viên chức đối với các đối tượng này.

+ Xác định tiền lương thấp nhất của công chức, viên chức trong khu vực công là mức tiền lương của người làm công vịêc yêu cầu trình độ đào tạo trung cấp (bậc 1) không thấp hơn mức tiền lương thất nhất của lao động qua đào tạo trong khu vực doanh nghiệp.

+ Mở rộng quan hệ tiền lương làm căn cứ để xác định mức tiền lương cụ thể trong hệ thống bảng lương, từng bước tiệm cận với quan hệ tiền lương của khu vực doanh nghiệp phù hợp với nguồn lực của Nhà nước.

+ Hoàn thiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang phù hợp với quy định của bảng lương mới.

- Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành bảo đảm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối đa 30% tổng quỹ lương,

+ Có một số phụ cấp sẽ bãi bỏ, nhưng chúng ta giữ lại một số phụ cấp: phụ cấp kiêm nhiệm, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp lưu động, phụ cấp phục vụ an ninh, quốc phòng, phụ cấp đặc thù đối với lực lượng vũ trang (quân đội, công an, cơ yếu).

+ Gộp phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp độc hại, nguy hiểm (gọi chung nó là phụ cấp theo nghề), gom các phụ cấp này thành một, không để như trước đây nữa, quá nhiều phụ cấp.

+ Gộp phụ cấp, đặc biệt phụ cấp thu hút, trợ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thành phụ cấp công tác ở vùng đặc biệt khó khăn.

- Về vấn đề quản lý tiền lương và thu nhập

+ Người đứng đầu của các cơ quan đơn vị, được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi thường xuyên được giao hàng năm để thuê mướn chuyên gia, nhà khoa học, người tài có năng lực đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị và quyết định mức chi trả lương tương xứng với nhiệm vụ được giao.

- Người đứng đầu cơ quan, đơn vị xây dựng quy chế để khen thưởng định kỳ cho các đối tượng thuộc quyền quản lý gắn với kết quả đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành công việc.

- Mở rộng áp dụng cơ chế thí điểm đối với một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tự cân đối được ngân sách và đảm bảo được nguồn cải cách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội được chi thu nhập bình quân tăng thêm không quá 0,8 lần quỹ lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.

- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư, hoặc tự đảm bảo được chi thường xuyên và các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện tcơ chế tự chủ tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp.

- Đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên thì áp dụng chế độ tiền lương như công chức, viên chức. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp viên chức do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nước cấp và từ nguồn thu của đơn vị), năng suất lao động, chất lượng công việc và hiệu quả công tác theo quy chế trả lương của đơn vị, không thấp hơn chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.

3.2. Đối với người lao động trong doanh nghiệp  

- Về mức lương tối thiểu vùng:

+ Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương tối thiểu vùng theo tháng; bổ sung quy định mức lương tối thiểu vùng theo giờ nhằm nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của thị trường lao động.

+ Điều chỉnh lương tối thiểu vùng đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình của họ; đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của thị trường lao động và phát triển kinh tế - xã hội (quan hệ cung - cầu lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, năng suất lao động, vấn đề việc làm, thất nghiệp, khả năng chi trả của doanh nghiệp…).

+ Kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng Tiền lương quốc gia; bổ sung các chuyên gia độc lập tham gia trong Hội đồng.

- Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập

+ Các doanh nghiệp (kể các các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) được tự quyết định chính sách tiền lương (trong đó có thang, bảng lương, định mức lao động) và trả lương không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố và trên cơ sở thỏa ước lao động tập thể phù hợp với tổ chức sản xuất, tổ chức lao động và khả năng của doanh nghiệp và công khai tại nơi làm việc.

+ Nhà nước công bố về mức lương tối thiểu vùng hàng tháng và theo giờ, tiền lương bình quân trên thị trường đối với các ngành nghề và hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường lao động, không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp và người lao động thương lượng, thỏa thuận về tiền lương và ký kết hợp đồng lao động và trả lương gắn với năng suất và kết quả lao động. Doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động thương lượng, thỏa thuận về tiền lương, tiền thưởng và các chế độ khuyến khích khác trong thỏa ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp. Tăng cường vai trò và năng lực của tổ chức công đoàn và công tác thanh tra, kiểm tra về thực hiện chế độ tiền lương trong doanh nghiệp của các cơ quan quản lý  nhà nước.

- Đối với doanh nghiệp nhà nước

+ Nhà nước quy định nguyên tắc chung để xác định tiền lương và tiền thưởng đối với doanh nghiệp nhà nước gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hướng đến đảm bảo được mặt tiền lương trên thị trường.

+ Phân định rõ tiền lương của người đại diện vốn nhà nước với tiền lương của ban điều hành và thực hiện nguyên tắc ai thuê, bổ nhiệm thì người đó đánh giá và trả lương. Nhà nước quy định mức lương cơ bản, tiền lương tăng thêm và tiền thưởng theo năm gắn với quy mô, mức độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn nhà nước đối với người đại diện vốn nhà nước. Mức lương cơ bản được điều chỉnh phù hợp theo mức lương của thị trường trong nước và khu vực. Từng bước tiến tới thuê hội đồng thành viên độc lập và trả lương cho hội đồng thành viên, kiểm soát viên từ lợi nhuận sau thuế. Tổng giám đốc và các thành viên ban điều hành làm việc theo chế độ hợp đồng lao động và hưởng lương trong quỹ lương chung của doanh nghiệp, trong đó có khống chế mức lương tối đa theo kết quả sản xuất kinh doanh và mức tiền lương bình quân chung của người lao động. Thực hiện công khai tiền lương, thu nhập hàng năm của người đại diện vốn nhà nước và tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước.

+ Đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ bình ổn thị trường theo nhiệm vụ được Nhà nước giao thì tính toán, xác định để loại trừ những chi phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ bình ổn thị trường, làm cơ sở xác định tiền lương, tiền thưởng của người lao động và người quản lý doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ công ích, Nhà nước tính đúng, tính đủ chi phí tiền lương phù hợp với mặt bằng thị trường vào chi phí, đơn giá sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước thực hiện chính sách điều tiết thu nhập bảo đảm hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp, người quản lý, người lao động và Nhà nước.

IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp, kể các nhân dân

Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, phương pháp, cách làm, tạo sự đồng thuận cao ở các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, người hưởng lương và toàn xã hội để tạo sự đồng thuận trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tiền lương.  

2. Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm, coi đây là giải pháp căn bản mang tính tiền đề để thực hiện cải cách tiền lương.

- Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện pháp luật cán bộ, công chức, viên chức; chọn lọc, tiếp thu những kinh nghiệm tốt của quốc tế, rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vị trí việc làm và các tiêu chí đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức gắn với từng vị trí việc làm trong khu vực công (sắp tới sửa rất nhiều luật, Bộ Nội vụ được phân công sửa 4 Luật: Luật Tổ chức Chính Phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật cán bộ công chức, Luật Viên chức, và hơn 30 Nghị định).

- Các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị trực tiếp xây dựng và hoàn thiện danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc, xác định cơ cấu công chức, viên chức, cấp bậc hàm sĩ quan; xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm và tinh giản biên chế theo các NQ của Đảng và quy định của Nhà nước đã được ban hành. Trên cơ sở đó, thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lương vũ trang để thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.

3. Xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới

- Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý chính sách tiền lương trong toàn hệ thống chính trị. Bộ Chính trị quyết định chủ trương, nguyên tắc và giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo cụ thể hóa thống nhất quản lý, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và ủy quyền cho các cơ quan chức năng ban hành các văn bản về chế độ tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ Trung ương đến cấp xã.

- Đối với chức danh Trung ương sau khi báo cáo với Trung ương thì Bộ Chính trị kết luận công nhận chức vụ Trung ương trong hệ thống chính trị để chúng ta có xếp thang bảng lương chung. Trong bảng lương về chức vụ lần này chỉ có 1 thang bảng lương, không thể liệt kê hết tất cả các chức vụ, chức danh tương đương bộ Chính trị xin ý kiến Trung ương sau đó quyết định chức danh tương đương để thực hiện 1 bảng lương chung cho cán bộ lãnh đạo và các chức danh của Đảng và Nhà nước quy định về chế độ tiền lương mới báo cáo cộ chính trị xem xét trước khi bàn hành, để từ năm 2021 thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới theo nguyên tắc đảm bảo không thấp hơn tiền lương hiện thưởng.

4. Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách, coi đây là nhiệm vụ đột phá để tạo nguồn cho cải cách chính sách tiền lương.

- Thực hiện quyết liệt và có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về cơ cấu lại nền kinh tế gắn đối với mô hình tăng trưởng; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; về phát triển kinh tế tư nhân; về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết của Bộ Chính trị về cơ cấu lại ngân sách nhà nưuóc, quản lý nợ công nhằm phát triển nguồn thu bền vững, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương.

- Triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm tổng nguồn thu và cơ cấu thu bền vững. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế, bao quát nguồn thu mới. Tăng cường quản lý thu, tạo chuyển biến căn bản trong việc chống thất thu, xử lý và ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh, chuyển giá, trốn thuế. Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Quyết liệt thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.

- Hàng năm, dành khoảng 50% tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hiện của ngân sách địa phương, khoảng 40% tăng thu ngân sách Trung ương cho cải cách chính sách tiền lương.

- Tăng cường quản lý nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước; tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên tăng hàng năm cho đến khi thực hiện khoán quỹ tiền lương trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao.

- Nguồn thực hiện cải cách hành chính riền lương còn dư sau khi bảo đảm điều chỉnh mức lương cơ sở hàng năm và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành, các dự án đầu tư theo quy định theo nghị quyết Quốc hội phải tiếp tục sử dụng để thực hiện cải cách chính sách tiền lương sau năm 2020, không sử dụng vào mục đích khác khi không được cấp có thẩm quyền cho phép.

- Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ công chức, viên chức có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, hội thảo,… Thực hiện khoán quỹ lương gắn với mục tiêu tinh giản biên chế cho các cơ quan, đơn vị. Mở rộng cơ chế khoán kinh phí gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ. Không gắn mức lương của cán bộ, công chức, viên chức với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chính sách, chế độ, không có tính chất lương. Nghiên cứu quy định khoán các chế độ ngoài lương. Chỉ ban hành các chính sách chế độ mới khi đã bố trí, cấn đối được nguồn lực thực hiện.

- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí đối với các dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy.

Đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ tài chính phải tự bảo đảm nguồn để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm một phần chi thường xuyên, tiếp tục sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ (riêng ngành y tế sử dụng tối thiểu 35% sau khi trừ các chi phí đã kết cấu vào giá dịch vụ), tiết kiệm 10% chi thường xuyên từ ngân sách tăng thêm hàng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để bảo đảm nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương.

Đơn vị sự nghiệp công lập không có nguồn thu do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên, thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm hàng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để thực hiện cải cách chính sách tiền lương.

5. Triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6 kháo XII và các đề án đổi mới, cải cách trong các ngành, lĩnh vực có liên quan là công việc rất quan trọng để cải cách chính sách tiền lương một cách đồng bộ.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới, tinh giản nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong họat động tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp công lập. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập với việc thể chế hóa và thực hiện các Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, đặc biệt là việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tạo nguồn bền vững cho cải cách chính sách tiền lương.

6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

- Sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, lao động, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và pháp luật có liên quan đến chính sách tiền lương trong khu vực công và khu vực doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm, kỷ luật, trả lương và quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đối tượng và tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm liên thông, tích hợp với các cơ sở dữ liệu quốc gia khác có liên quan.

- Hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, tạo sự đồng thuận cao. Phát triển tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đòan cơ sở, quản lý tốt việc thành lập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động. Cơ quan thống kê của Nhà nước công bố mức sống tối thiểu hàng năm để làm căn cư xác định mức lương tối thiểu và khuyến nghị các định hướng chính sách tiền lương; tăng cường điều tra, công bố định kỳ thông tin, số liệu về tiền lương và thu nhập của cả khu vực công và khu vực thị trường.. Nâng cao năng lực hiệu quả công tác nghiên cứu cơ bản và thiết kế chính sách về lao động và tiền lương.

- Làm tốt công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.

- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách tiền lương theo quy định của pháp luật trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cố tình né tránh, thực hiện không nghiêm túc hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao trong thực hiện cải cách chính sách tiền lương gắn với cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập và vi phạm quy định của pháp luật về tiền lương. Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số và cơ chế báo cáo định kỳ, công khai, minh bạch thông tin, số liệu về tổ chức bộ máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các khoản chi tiền lương trong khu vực công.

7. Tăng cưòng sự lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

- Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương, lãnh đạo triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình bảo đảm thực hiện cải cách chính sách tiền lương đạt kết quả, mang lại hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế.

- Phát huy vai trò của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

- Nâng cao vai trò và năng lực của tổ chức công đoàn là tổ chức đại diện của người lao động trong quan hệ lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

 

 

HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG

Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1 Slideshow Image 1

Liên kết Liên kết

QUẢNG CÁO - DOANH NGHIỆP QUẢNG CÁO - DOANH NGHIỆP

Thống kê Thống kê

  Đang truy cập : 1
  Hôm nay: 475
  Tổng lượt truy cập: 393684